Từ một nước bại trận, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Nhật Bản đã vườn lên mạnh mẽ, trờ thành một siêu cường kinh tế, đứng thứ hai trên thế giới. Từ sự phát triển "thần kì" ấy của đất nước "Mặt trời mọc", các quốc gia đang phát triển có thể rút ra nhiều kinh nghiệm cho công cuộc công nghipeje hóa, hiện đại hóa đất nước của mình.
I - TÌNH HÌNH NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là nước bại trận và lần đầu tiên trong lịch sử của mình bị quân đội nước ngoài chiếm đóng. Sau chiến tranh, đất nước Nhật Bản mất hết thuộc địa, kinh tế bị tàn phá hết sức nặng ; đồng thời xuất hiện nhiều khó khăn bao trùm đất nước, đó là : thật nghiệp trầm trọng, thiếu thốn lương thực, thực phẩm và hàng hóa ticêu dùng, lạm phát nặng nề....
Những cùng ngay sau chiến tranh, dưới chế độ quân quản của Mĩ, một loạt các cải cách dân chủ được tiến hành như bàn hành Hiến pháp mới (1946 -1949) ; xóa bỏ chủ nghĩa quân phiệt và trừng trị các tội phạm chiến tranh ; giải giải các lực lượng vũ trang ; giải thể các công ti độc quyền lớn ; thanh lọc các phần từ phát xít ra khỏi các cơ quan nhà nước ; ban hành các quyền từ do dân chủ (luật Công đoàn, đề cao địa vị phụ nữ, trường học tách khỏi ảnh hưởng tôn giáo...). Nhưng cải cách này đã mang lại luồng không khí mới đối với các tầng lớp nhân dân và nhân tố quan trong giúp Nhật Bản phát triển mạnh mẽ sau này.
- Hãy nêu nội dung những cải cách dân chủ ở Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và ý nghĩa của chúng.
II - NHẬT BẢN KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SAU CHIẾN TRANH
Nền kinh tế Nhật Bản dân được khôi phục và chỉ bắt đầu phát triển mạnh mẽ khi Mĩ tiến hành cuộc Chiến tranh Triều Tiên (6 - 1950) - được coi là "ngọn gió thần" đối với nền kinh tế Nhật Bản. Bước sang những năm 60 của thế XX, kĩ Mĩ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nên kinh tế Nhật Bản lại có cơ hội mới để đạt được sự tăng trước "thần kì", vượt qua các nước Tây Âu, vươn lên đứng thứ hai trong thế giới tư bản chủ nghĩa.
Về tổng sản phẩm quốc dân, năm 1950 Nhật Bản chỉ mới đạt 20 tỉ USD, bảng 1/17 của Mĩ, nhưng đến năm 1968 đạt đạt tới 183 tỉ USD, vươn lên đứng thứ hai thế giới - sau Mĩ (29 850 USD).
Năm 1990, thu nhập bình quân theo đầu người đạt 23796 USD, vượt Mĩ và đứng thứ hai trên thế giới - sau Thụy Sĩ (29 850 USD).
Về công nghiệp, trong những năm 1950 - 1960, tốc đột tăng trường bình quân hằng năm là 15%, những năm 1961 - 1970 là 13,5%.
Về nông nghiệp, trong những năm 1967 - 1969, nhờ áp dụng những thành tựu khoa học - kĩ thuật hiệp đại, đã cung cập được hơn 80% như cầu lương thực trong nước, 2/3 nhu cầu thịt, sữa và ngehef đánh cá rất phát triển, đứng thứ hai trên thế giới - sau Pê-ru.
Kết quả là từ những năm 70 của thế kỉ XX, cùng với Mĩ và Tây Âu, Nhật Bản đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới. Sư tăng trường kinh tế nhanh chóng của Nhật Bản gắn liền với những điều kiện quốc tế thuận lợi như sự phát triển chung của nề kinh tế thế giới, nhưng thành tựu tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện đại... và chủ yếu là từ những nhân tố có ý nghĩa quyết định của chính Nhật Bản. Đó là :
- Truyền thống văn hóa, giáo dục lâu đời của người Nhật - sẵn sàng tiếp thu những giá trị tiếng bộ của thế giới nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc.
- Hệ thống tổ chực quản lí có hiểu quả của các xí nghiệp, công ti Nhật Bản
- Vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc đề ra các chiến lược phát triển, nắm bắt đúng thời cơ và sự điều tiết cần thiết để đưa nền kinh tế liên tục tăng trưởng.
- Con người Nhật Bản được đào tạp chu đáo, có ý chí vươn lên, cần cù lao động, đề cao kỉ luật và coi trọng tiết kiệm.
Nền kinh tế Nhật Bản cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế như hầu hết năng lượng, nguyên liệu đều phải nhập từ nước ngoài, sự cạnh tranh, chèn ép của Mĩ và nhiều nước khác...
Sau một thời kì phát triển liên tục, từ những năm 90 của thế kỉ XX, nền kinh tế Nhật Bản đã lầm vào tình trạng suy thoái kéo dài chưa từng thấy từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút liên tục : những năm 1991 - 1995 là 1,4%, băn 1996 nhích lên 2%, nhưng đến năm 1997 lại xuống âm 0.7%, năm 1998 - âm 0.1%, năm 1999 - âm 1,19%. Nhiều công ti bị tàn phá, ngân sách thâm hụt. Dự luận thế giới nhân xét rằng : "Nước Nhật đã đánh mất 10 năm cuối cùng của thế kỉ XX" Những biện pháp khắc phục của chính phủ đã không thu được kết quả như mong muốn.
- Hãy nếu những dân chứng tiêu biểu về sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản trong những năm 70 của thế kỉ XX.
Về đối nội, nhờ những cải cách sau chiến tranh, Nhật Bản đã chuyển từ xã hội chuyên chế sang một xã hội dân chủ. Đảng Cộng sản và nhiều chính đáng khác được công khai hoạt động, phong trào bãi công và các phong trào dân chủ phát triển rộng rãi. Suốt một thời kì dài từ năm 1955 đến năm 1993, Đảng Dân chủ Tự do (LDP), đại diện cho quyền lợi của giải cấp tư sản liên tục cầm quyền. Nhưng từ năm 1993, Đảng Dân chủ Tự do đã mất quyền lập chính phủ, phải nhường chỗ hoặc liên minh với các lực lượng đối lập.
Đây là một sự kiện quan trọng, một mốc trong sống chính trị ở Nhật Bản. Tình hình chính trị Nhật Bản không thật ổn định, có lúc chỉ trong một thời gian, các chính phủ liên tiếp thay đổi, đòi hỏi phải có một mô hình chính trị mới với sự tham gia cầm quyền của nhiều chính đáng.
Về đối ngoại, sau chiến tranh Nhật Bản là một nước bại trận, hoàn toàn lệ thuộc vào Mĩ về chính trị và an minh. Ngày 8 - 9 - 1951, Nhật Bản kí với Mĩ "Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật", theo đó, Nhật Bản chấp nhận đặt dưới "ô bảo hộ hạt nhân" của Mĩ và để Mĩ đóng quân, xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản. Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật đã được gia hạn vào các năm 1960, 1970 và được nâng cấp vào những năm 1996, 1997. Nhờ đó, trong thời kì Chiến tranh lạnh, Nhật Bản chỉ dành 1% tổng sản phẩm quốc dân cho những chi phí quân sự, còn tập rung sức vào phát triển kinh tế (trong khi các nước khác chi phí quân sự là 4 - 5%, thậm chí có nước lên tới 20%).
Từ nhiều thập niên qua, các giới cầm quyền Nhật Bản thi hành một chính sách đối ngoại mềm mỏng về chính và tập trung vào phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại như trao đổi buôn bán, tiến hành đầu tư và viện trợ cho các nước, đặc biệt đối với các nước Đông Nam Á. Từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, Nhật Bản nỗ lực vươn lên trở thành một cường quốc chính trị để tương xứng với vị thế siêu cường kinh tế của mình.